Chủ Nhật, 28 tháng 12, 2014

Mẹo nhỏ xoa dịu cơn đau bụng cho bé

Ở các bé từ 1 - 3 tháng tuổi thường bị chứng đau bụng quặn. Dưới đây là một vài mẹo giúp mẹ làm dịu cảm giác khó chịu ở trẻ.

Theo Linh Chi - Kiến thức

Cẩn trọng khi dùng thuốc ho thuốc cảm cho trẻ

Nghiên cứu gần đây cho thấy, thuốc ho thuốc cảm dành cho trẻ em không giúp làm giảm triệu chứng bệnh. Trong một số trường hợp, chúng có thể gây nguy hiểm.

Các chuyên gia Mỹ nhất trí rằng, mỗi năm một em nhỏ có thể bị khoảng 10 đợt nhiễm virus, với các triệu chứng ho và cảm. Trên thị trường Mỹ hiện có tới hơn 800 loại thuốc ho và thuốc cảm dành cho trẻ em.
Bốn thành phần chính của các loại thuốc ho thuốc cảm:
- Chống ngạt mũi: Làm thông thoáng mũi, giúp bé dễ thở. Thuốc làm khô niêm mạc, giúp giảm phần nào hiện tượng chảy nước mũi. Tác dụng phụ là khiến trẻ kích thích, khó ngủ.
- Kháng histamin: Trị chứng hắt hơi, sổ mũi. Tác dụng phụ gây buồn ngủ.
- Ức chế cơn ho: Ức chế phản xạ ho ở họng và phổi, ngăn chặn cơn ho.
- Long đờm: Giúp đờm loãng hơn và dễ long ra.
measuring-childs-medicine-6872-141696311
Ảnh minh họa: Uhhospital.org.
Thuốc ho có an toàn cho trẻ em?
Các loại thuốc ho, thuốc cảm đã được sử dụng từ hàng chục năm nay, vẫn có rất ít nghiên cứu về độ an toàn và tính hiệu quả của chúng ở trẻ em. Cơ quan Quản lý thuốc và thực phẩm Mỹ (FDA) lần đầu tiên đưa ra hướng dẫn sử dụng thuốc ho thuốc cảm ở trẻ em năm 1976. Lúc đó, liều lượng thuốc dùng cho trẻ hoàn toàn dựa vào liều dùng cho người lớn: Trẻ  5-12 tuổi dùng 1/2 liều người lớn, trẻ 2-5 tuổi dùng 1/4 liều người lớn. Tại thời điểm đó chưa có quy định về việc sử dụng thuốc ở trẻ dưới 2 tuổi.
Bản hướng dẫn này tồn tại trong hơn 30 năm, và được FDA xem xét lại khi nổi lên những nghi vấn về độ an toàn của các thuốc ho đối với trẻ em. Ngày 17/01/2008, cơ quan này đưa ra khuyến cáo cuối cùng: Không dùng thuốc ho, thuốc cảm cho trẻ dưới 2 tuổi vì chúng không an toàn, không hiệu quả. FDA đang tiếp tục xem xét khả năng sử dụng thuốc ho thuốc cảm cho trẻ 2-12 tuổi.
Nghiên cứu của Trung tâm Phòng và Kiểm soát Bệnh tật của Mỹ (CDC) thực hiện năm 2007 cho thấy, trong khoảng thời gian 2004-2005, hơn 1.500 trẻ dưới 2 tuổi được đưa tới điều trị tại các phòng cấp cứu của Mỹ vì tác dụng phụ của thuốc ho và cảm. Các tai biến nguy hiểm nhất bao gồm nhịp tim nhanh, kém tỉnh táo, co giật, tử vong. Trong số các nạn nhân, cả 3 trường hợp trẻ dưới 6 tuổi tử vong vì dùng thuốc cảm năm 2005 đều có nguyên nhân sử dụng thuốc quá liều do vô ý.
Các chuyên gia cho rằng, phần lớn các tai biến nghiêm trọng thường liên quan tới việc sử dụng thuốc không đúng cách. Thống kê năm 2004 ở Mỹ cho thấy có tới 25% trẻ được dùng thuốc đúng liều nhưng vẫn bị tai biến. Trẻ dưới 2 tuổi có tỷ lệ tai biến cao nhất.
Năm 2008, những tranh cãi xung quanh độ an toàn của thuốc cảm ở trẻ em đã khiến nhiều nhà sản xuất phải thay đổi nhãn mác và đưa ra cảnh báo trên bao bì: “Không dùng thuốc này cho trẻ dưới 4 tuổi”, “Không dùng thuốc kháng histamime như thuốc an thần hay thuốc ngủ cho trẻ”.
Thuốc ho trẻ em có hiệu quả?
Năm 2009, nghiên cứu do BV Nhi đồng BC ở Vancouver (Canada) tiến hành cho thấy, chẳng những thuốc ho, thuốc cảm có thể gây nguy hiểm mà còn không mang lại lợi ích gì cho trẻ dưới 5 tuổi.
Bệnh nhiễm virus cần thời gian để đi hết quãng đường của mình. Không có phương thuốc gì chữa khỏi các căn bệnh này. Thuốc ho và cảm chỉ giúp làm giảm nhẹ triệu chứng. Nhiều khi tác hại do sử dụng thuốc không đúng cách còn lớn hơn nhiều so với lợi ích mà các thuốc này mang lại. Cân nhắc giữa lợi và hại, ngày càng có nhiều cha mẹ chọn cách không dùng thuốc ho thuốc cảm cho con.
Hướng dẫn sử dụng thuốc ho một cách an toàn
- Đọc kỹ nhãn thuốc, đặc biệt là các thành phần của thuốc.
- Không sử dụng cùng lúc 2 loại thuốc có cùng thành phần.
- Chọn thuốc phù hợp với triệu chứng bệnh.
- Không dùng thuốc lâu hơn quy định.
- Không dùng thuốc thường xuyên hơn chỉ dẫn.
- Không cho trẻ dùng thuốc của người lớn, dù có giảm liều.
- Dùng thìa hoặc cốc đo chính xác hàm lượng thuốc, không được áng chừng.
Làm gì để giúp bé cảm thấy dễ chịu hơn?
Phần lớn các bệnh nhiễm virus sẽ tự khỏi sau khoảng một tuần. Thông thường nếu được chăm sóc đúng cách, các bé sẽ khá lên nhiều kể từ ngày thứ 5.
Hãy giúp trẻ bằng cách:
- Cung cấp đủ nước: Cho bé uống nhiều nước, nước hoa quả, bú mẹ để giữ cho cơ thể không bị mất nước, phòng ngừa hiện tượng đờm dãi bị cô đặc, gây bít tắc đường hô hấp.
- Khuyến khích bé ho: Ho là phản xạ bảo vệ tự nhiên của cơ thể, giúp tống đờm dãi ra ngoài. Nếu bé muốn ho, hãy đặt bé ngồi trên lòng bạn, nghiêng người bé về phía trước khoảng 30 độ và vỗ rung nhẹ ở vùng lưng.
- Làm ẩm đường mũi: Dùng nước muối sinh lý nhỏ đều đặn vào hai bên lỗ mũi, khoảng 30 phút một lần. Nếu mũi bé có nhiều dịch tiết thì cần hút sạch bằng dụng cụ hút mũi dành cho trẻ em.
- Súc miệng bằng nước muối: Các bé từ 4 tuổi trở lên cần được khuyến khích súc miệng nước muối để giảm triệu chứng đau họng.
- Khuyến khích bé nghỉ ngơi: Nếu bé sốt hoặc ho nhiều, nên giữ bé ở nhà, hạn chế hoạt động.
- Mặc ấm cho bé và giữ nhiệt độ phòng ở mức mát mẻ, nhiệt độ cao quá sẽ không tốt vì làm khô đường hô hấp.
- Làm ẩm không khí: Dùng máy phun sương duy trì độ ẩm trong phòng ở mức 50-70%. Không khí mát và ẩm tạo điều kiện tối ưu cho đường thở.
Theo BS Trần Thu Thủy - VnExpress

Trẻ ho - mối lo của người lớn

Những cơn ho dai dẳng kéo dài luôn là nỗi ám ảnh không chỉ của riêng trẻ mà còn cả với các bậc phụ huynh, đặc biệt là khi tiết trời chuyển mùa.

Thời tiết miền Bắc bắt đầu chuyển lạnh và như thường lệ con trai chị Trang lại phải đối diện với chứng ho khan dai dẳng. Tình trạng này đã kéo dài gần hơn 10 ngày, và dù chị Trang đã cho con sử dụng thuốc cắt giảm cơn ho nhưng vẫn chưa có tín hiệu tốt. Ban đầu thấy con chỉ có dấu hiệu ho nhẹ nên chị đinh ninh rồi con sẽ nhanh khỏi. Nhưng chính sự chủ quan trong quá trình điều trị dẫn đến cơn ho ngày càng trở nặng gây ảnh hưởng đến sức khỏe, chuyện học hành của con trai.
Cùng mối lo này, chị Huyền ở quận 3 TP HCM cho hay chuyện con bị ho là cơn “ác mộng” của cả gia đình. “Nhiều lúc vì ho nên con quấy khóc suốt nhiều đêm liền, mình và chồng cũng mất ngủ theo, đến sáng hôm sau đi làm với tâm trạng mệt mỏi vì thiếu giấc”, chị Huyền chia sẻ.

Trẻ ho - mối lo của người lớn
Những cơn ho kéo dài dễ làm trẻ mệt mỏi, chán ăn… dẫn đến sụt cân
Ho là triệu chứng khá phổ biến ở trẻ, đặc biệt là trẻ dưới 5 tuổi khi sức đề kháng và hệ hô hấp chưa được phát triển toàn diện. Ho nhiều có thể gây ra nôn (trớ) khiến trẻ chán ăn. Mỗi lần con ho, các bậc phụ huynh thường muốn tìm ra cách chấm dứt nhanh triệu chứng này. Hiện nay, trên thị trường có bán rất nhiều các loại siro ho thảo dược nên căn cứ vào thể trạng của từng trẻ, cha mẹ nên tích trữ sẵn một lọ trong tủ thuốc nhà mình.
Một chuyên gia am hiểu lĩnh vực này chia sẻ, với trẻ em, một sản phẩm giảm ho cần đáp ứng được các yêu cầu như: dạng bào chế phù hợp, dễ uống, sử dụng an toàn, trong thành phần có thể có chứa các thảo dược như cao lá thường xuân; dịch ép quả tắc, đường phèn; tinh dầu húng chanh (tần dày lá), tràm, gừng… Đây là những loại thảo dược đã có những bảo chứng trong quá trình hỗ trợ điều trị ho cho trẻ từ nền y học thế giới và dân gian.
Polyad
Dịch ép quả tắc, đường phèn kết hợp với cao lá thường xuân, tinh dầu (gừng, húng chanh, tràm)
Cao lá thường xuân: là loại thảo dược có hiệu quả cao với các bệnh về đường hô hấp kèm theo triệu chứng ho. Hiệu quả và độ an toàn của cao lá thường xuân đã được chứng minh trong nhiều nghiên cứu lâm sàng. Hiện nay, dịch chiết (cao) lá thường xuân đã và đang được ứng dụng rộng rãi trong hỗ trợ điều trị ho và viêm đường hô hấp tại nhiều nước trên thế giới, nhất là châu Âu.
Lá húng chanh (tần dày lá): có tác dụng với nhiều vi khuẩn gây ho, dùng trong các trường hợp cảm cúm, ho, viêm họng, khan tiếng.
Gừng: từ lâu người ta đã xem gừng như một vị thuốc gần gũi, ít tốn kém mà lại hữu hiệu giúp chữa trị các triệu chứng ho do thời tiết, giúp ấm họng, kháng khuẩn, tăng cường sức đề kháng cho trẻ nhỏ.
Tràm: có tác dụng sát khuẩn, giữ ấm cơ thể, giúp trị cảm và ho.
Dịch ép quả tắc, đường phèn: quả tắc có tác dụng kiện tỳ, thông phổi, giúp trừ đờm và trị ho cảm, tăng sức đề kháng và phòng cảm cúm. Tinh dầu tắc giúp kích thích hệ tiêu hóa, long đờm, tống đờm ra ngoài. Đường phèn có tác dụng bổ trung ích khí, hoà vị, nhuận phế, giảm ho, giúp trừ đàm..
Theo Thu Ngân - VnExpress

Tổng quan về chứng tăng động giảm chú ý

Chứng tăng động giảm chú ý ở trẻ em (AD/ADHD) hay còn gọi là "hội chứng trẻ hiếu động" và "rối loạn hiếu động kém tập trung.

1. Chứng tăng động giảm chú ý là gì?

Chứng tăng động giảm chú ý ở trẻ em (AD/ADHD) hay còn gọi là “hội chứng trẻ hiếu động” và “rối loạn hiếu động kém tập trung” là một rối loạn có tính chất tâm lý thường gặp ở trẻ em, khởi phát sớm và kéo dài với các biểu hiện như: hoạt động quá mức, khó kiểm soát hành vi, kém khả năng tập trung chú ý gây nhiều khó khăn trong sinh hoạt, học tập và trong các mối quan hệ xã hội. 
Trẻ không tập trung và hiếu động thường được chẩn đoán phát hiện ở lứa tuổi 4-6 tuổi, và bé trai bị nhiều hơn bé gái gấp 4-10 lần. Tuy nhiên, sau này tỉ lệ rối loạn này ở bé gái cũng tăng rõ rệt.
ADHD thường xuất hiện sớm trong quá trình phát triển của trẻ (thông thường là trong 5 năm đầu tiên của cuộc đời). Mức độ thay đổi theo từng cá nhân, nhưng có khuynh hướng giảm dần (ít nhất là trên vấn đề vận động) vào tuổi thiếu niên.
2. Chứng tăng động giảm chú ý được phân loại như thế nào?
Sổ thống kê và chẩn đoán DSM-IV của Hiệp hội Tâm lý Thần kinh Hoa Kỳ phân chia chứng Tăng động giảm chú ý thành 3 nhóm chính:
Rối loạn tăng động giảm chú ý - Dạng phối hợp: Phân nhóm này được chẩn đoán nếu có ít nhất 6 triệu chứng giảm chú ý và ít nhất 6 triệu chứng tăng động bồng bột tồn tại trong một thời gian ít nhất là 6 tháng. Hầu hết những trẻ em và thiếu niên có rối loạn này đều thuộc dạng phối hợp.
Rối loạn tăng động giảm chú ý - Dạng trội về giảm chú ý: Phân nhóm này được chẩn đoán khi có ít nhất 6 triệu chứng giảm chú ý (nhưng có ít hơn 6 triệu chứng về tăng động bồng bột) tồn tại trong một thời gian ít nhất là 6 tháng.
Rối loạn tăng động giảm chú ý - Dạng trội về tăng động bồng bột: Phân nhóm này được chẩn đoán khi có ít nhất 6 triệu chứng về tăng động bồng bột (nhưng có chưa đến 6 triệu chứng về giảm chú ý) tồn tại trong thời gian ít nhất là 6 tháng.
3. Những dấu hiệu để nhận biết trẻ tăng động giảm chú ý gồm những gì ?
Những đặc điểm lâm sàng để nhận biết trẻ tăng động giảm chú ý:
Sự hoạt động thái quá : Trẻ hoạt động liên tục, múa tay chân, chạy nhảy leo trèo, không ngồi yên một chỗ, thường xuyên chuyển từ hoạt động này sang hoạt động khác…
Sự tập trung chú ý kém : Khó khăn trong việc duy trì khả năng chú ý trong học tập, làm việc, sinh hoạt hàng ngày và ngay trong lúc vui chơi. Trẻ thường không lắng nghe khi người khác nói chuyện trực tiếp hoặc đưa ra câu trả lời trước khi nghe hết câu hỏi; không thể hoàn thành bài tập ở trường và ở nhà; dễ dàng bị phân tâm bởi các kích thích xung quanh; hay để quên và làm thất lạc đồ đạc.
Phối hợp, kiểm soát động tác kém: Trẻ hoạt động mang tính chất xung động tức thì, thường hay gây ồn ào, làm phiền người khác quá mức.
Những rối loạn hành vi khác đi kèm theo như: rối loạn giấc ngủ (thường là trẻ rất khó đi vào giấc ngủ), rối loạn lo âu...Các rối loạn này có thể nhiều hay ít tùy thuộc vào từng trẻ và môi trường xung quanh tác động đến trẻ. 
Các rối loạn nêu trên xảy ra ở mọi nơi (ở nhà, trường học, bệnh viện, nơi công cộng…), trong mọi hoàn cảnh, trong tất cả các mối quan hệ trong khoảng thời gian kéo dài ít nhất 6 tháng.
4. Đâu là tiêu chuẩn khoa học để chẩn đoán tình trạng rối loạn tăng động giảm chú ý ở trẻ?
Tiêu chuẩn chẩn đoán theo DSM-IV:
A. Có tiêu chuẩn (1) hoặc (2):
(1) Trong số các triệu chứng giảm chú ý sau đây, có ít nhất 6 triệu chứng tồn tại trong thời gian ít nhất là 6 tháng, đến độ không thích nghi và không phù hợp với trình độ phát triển:
(a) Thường không thể tập trung chú ý nhiều vào các chi tiết hoặc phạm phải những lỗi lầm do bất cẩn trong học tập, làm việc hoặc trong các hoạt động khác.
(b) Thường khó khăn trong việc duy trì khả năng chú ý trong công việc hoặc trong vui chơi.
(c) Thường có vẻ không lắng nghe người khác nói chuyện trực tiếp.
(d) Thường không tuân theo những hướng dẫn hoặc không thể hoàn tất bài vở ở trường, công việc nhà, hoặc các trách nhiệm nơi làm việc (không phải do hành vi chống đối hoặc không có khả năng hiểu những hướng dẫn).
(e) Thường khó khăn khi tổ chức các công việc và các hoạt động.
(f) Thường né tránh, không thích, hoặc miễn cưỡng tham gia các công việc đòi hỏi sự cố gắng tinh thần liên tục (như làm bài tập ở trường hoặc bài tập về nhà).
(g) Thường để thất lạc những vật dụng cần để làm việc hoặc vui chơi (đồ chơi, dụng cụ học tập, bút chì, sách vở, và các dụng cụ).
(h) Thường dễ dàng bị chia trí bởi các kích thích bên ngoài; (i) Thường quên làm các công việc hằng ngày.
(2) Trong số các triệu chứng tăng động - bồng bột sau đây, có ít nhất 6 triệu chứng tồn tại trong thời gian ít nhất là 6 tháng, đến độ không thích nghi và không phù hợp với trình độ phát triển:
Tăng động
(a) Tay chân ngọ nguậy, ngồi không yên.
(b) Thường rời bỏ chỗ ngồi trong lớp học hoặc trong các tình huống đòi hỏi phải ngồi yên.
(c) Thường chạy nhảy hoặc leo trèo quá mức trong những tình huống không thích hợp (ở thiếu niên và người lớn, điều này có thể giới hạn ở mức đương sự có cảm giác bồn chồn chủ quan).
(d) Thường khó tham gia những trò chơi hoặc hoạt động giải trí cần phải giữ yên lặng.
(e) Thường luôn di chuyển hoặc hành động như thể "đang lái môtô".
(f) Thường nói quá nhiều.
Bồng bột
(a) Thường buột miệng trả lời khi người khác chưa hỏi xong.
(b) Thường khó chờ đợi đến phiên mình.
(c) Thường làm gián đoạn hoặc quấy rầy người khác (xen vào các cuộc nói chuyện hoặc các trò chơi).
B. Một số triệu chứng tăng động - bồng bột hoặc triệu chứng giảm chú ý gây ra suy giảm chức năng được thấy hiện diện trước 7 tuổi.
C. Tình trạng giảm chức năng do các triệu chứng này được thấy hiện diện trong ít nhất 2 môi trường khác nhau (ở trường, ở nơi làm việc, hoặc ở nhà).
D. Phải có bằng chứng rõ ràng về tình trạng suy giảm chức năng đáng kể về lâm sàng trong hoạt động xã hội, học tập hoặc nghề nghiệp.
E. Nhữngtriệu chứng không phải chỉ có xảy ra trong rối loạn phát triển lan tỏa, Tâm thần phân liệt hoặc trong Rối loạn tâm thần khác và chúng không được giải thích rõ bởi một rối loạn tâm thần khác.
5. Nguyên nhân của hội chứng tăng động giảm chú ý là gì?
ADHD là một trong những hội chứng mắc phải từ thời thơ ấu được nghiên cứu nhiều nhất. Tuy nhiên, cho đến nay người ta vẫn chưa xác định rõ ràng được nguyên nhân.Có thể xếp các nguyên nhân được tìm thấy hiện nay vào 3 nhóm nguyên nhân chính:
Nguyên nhân thực thể:
Tiếp xúc với một số độc chất trong thời kỳ mang thai: như thuốc lá, rượu, ma túy, vì những chất này làm giảm sản xuất dopamine ở trẻ em hoặc các độc chất trong môi trường như dioxine, hydrocarbure benzen…cũng làm tăng nguy cơ trẻ sinh ra bị hiếu động, kém tập trung.
Tai biến lúc sanh: như sanh non tháng, thiếu oxi lúc sanh( bị ngạt) làm ảnh hưởng đến sự phát triển trí não của trẻ.
Do di truyền: đa số những trẻ em mắc chứng không tập trung-hiếu động thì trong gia đình của chúng có ít nhất một thành viên mắc chứng này. Hơn nữa, 1/3 số người đàn ông bị chứng hiếu động-thiếu tập trung khi còn nhỏ, thì con họ sau này cũng mắc phải chứng này.
Nguyên nhân tâm lý: Lo lắng, rối loạn tâm thần, bị cưỡng bức, lạm dụng tình dục, gặp khó khăn trong học tập, lục đục trong gia đình.
Các nguyên nhân khác: Như chấn thương đầu, nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương, trẻ ngủ hay ngáy, hoặc có rối loạn giấc ngủ (ngủ nhiều quá hoặc khó ngủ)…
6. Chứng tăng động giảm chú ý này về lâu dài có gây nguy hại gì không?
Thường những trẻ em mắc chứng không tập trung hiếu động lại mắc những chứng khác như:
Trầm cảm: Người lớn và trẻ em đều bị như nhau, nhất là những gia đình có nhiều người mắc chứng này.
Thiếu tự tin: Làm cho trẻ khó thích nghi với môi trường sống và học đường.
Hội chứng Tourette: Đó là những rối loạn thần kinh, biểu hiện bằng tật giật cơ, với những cử động không tự ý .
Rối lọan lo âu: Lo lắng và nóng nảy kèm theo nhịp tim nhanh, thở nhanh, chóng mặt…
Gặp rắc rối trong học tập: 20% trẻ mắc chứng không tập trung- hiếu động cần phải có chế độ giáo dục đặc biệt.
Hay khiêu khích, gây sự: Thái độ thù ghét, hung tợn.
7. Phòng ngừa bằng cách nào?
Vì nguyên nhân gây ra chứng này vẫn chưa rõ ràng, cho nên rất khó có thể phòng ngừa được. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp nên phòng tránh không cho trẻ bị chấn thương vào đầu hay bị nhiễm trùng thần kinh trung ương và không cho trẻ tiếp xúc với kim loại nặng (chì). 
Mặt khác, người mẹ khi mang thai cần phải chú ý không được hút thuốc, uống rượu hay dùng chất ma túy, nếu được, càng tránh tiếp xúc với những chất độc trong môi trường càng tốt.
8. Trẻ tăng động giảm chú ý có thể được hỗ trợ như thế nào?
Các biện pháp trị liệu cơ bản:
Điều trị bằng chế độ ăn uống: Nên cho trẻ ăn những thức ăn nào mà ít gây ra dị ứng, có thể cải thiện được sự tập trung chú ý của trẻ. Nên tránh những loại thức ăn sau: Sữa & các sản phẩm từ sữa, lúa mì, bắp, đậu nành, trứng, sô-cô-la, đậu phộng; các lọai thực phẩm có thêm phụ gia nhằm ổn định thực phẩm, hóa chất và phẩm màu, cam, quít.
Dùng thuốc: Khi đã chẩn đoán xác định bệnh, bác sĩ sẽ cho dùng thuốc methylphenidate (Ritalin®), thuốc này giúp kích thích hệ thần kinh trung ương làm cải thiện khả năng tập trung của trẻ. Thường không dùng thuốc này cho trẻ trước tuổi đi học. 
Liều dùng từ 20-60 mg mỗi ngày, và thuốc sẽ có tác dụng trong vòng 30 phút. Dùng thuốc này có thể gây ra những thay đổi về thói quen ăn uống của trẻ. Nên tôn trọng những thay đổi này, tránh ép trẻ ăn khi không đói, hoặc không nên từ chối cho trẻ ăn khi trẻ đòi ăn. 
Sau khi điều trị bằng thuốc này khoảng 4 tuần trẻ sẽ tập trung và trầm tĩnh hơn, kết quả học tập trong lớp tốt hơn. Hiệu quả của thuốc khi dùng lâu dài vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Tác dụng phụ khi uống thuốc này là nhức đầu, ăn uống không ngon miệng, mất ngủ, đái dầm, bứt rứt, trầm cảm và hại cho gan.. 
Ngoài ra còn có thuốc atomoxetine( Strattera ® ) được FDA của Mỹ công nhận, cũng có hiệu quả như Ritalin nhưng ít tác dụng phụ hơn. Đây là điều nên hết sức cân nhắc khi áp dụng.
Tâm lý trị lịêu
Một số trẻ em bị chứng không tập trung hiếu động sẽ hết đi khi trẻ lớn lên, một số khác thì chứng này có thể tồn tại suốt đời. Tuy nhiên, nhờ vào các phương pháp điều trị giúp kiểm soát được chứng bệnh này, và người bệnh có được cuộc sống bình thường. 
Các biện pháp điều trị này bao gồm: tâm lý trị liệu, hỗ trợ từ phía gia đình, nhóm hỗ trợ, cha mẹ trẻ nên có kiến thức để giúp đỡ những trẻ hiếu động. Cách tốt nhất là phối hợp giữa cha mẹ, thầy cô giáo, bác sĩ và nhà tâm lý trong việc điều trị cho trẻ:
Vì trẻ em hiếu động thường gặp phải những vấn đề về tập trung chú ý, vì vậy các bậc cha mẹ và thầy cô giáo cần phải diễn đạt một cách rõ ràng để cho trẻ dễ tiếp thu trong học tập và phải đảm bảo là trẻ hoàn thành tốt nhiệm vụ. 
Trẻ hiếu động rất dễ bị phân tán do đó tốt hơn là nên giao cho trẻ những công việc đơn giản. Nếu như công việc hay trò chơi có tính phức tạp, thì nên phân chia ra thành từng giai đoạn để trẻ dễ hiểu và dễ thực hiện.
Trẻ hiếu động đặc biệt rất nhạy cảm với những kích thích từ môi trường bên ngoài. Do đó cần phải tổ chức thành nhóm hoặc giao công việc dạy dỗ trẻ cho những người có tính kiên nhẫn và biết hoạt náo. Khi chú ý xem tivi cũng vậy, những hình ảnh xáo động và những bài nói chuyện trên tivi dễ ảnh hưởng đến sự tập trung của trẻ. Dó đó cần phải tránh.
Khi làm bài tập ở trường hay những công việc khác, cần bố trí cho trẻ nơi yên tĩnh để không làm cho trẻ bị phân tán.
Trẻ nên cho ngủ đầy đủ: tối thiểu từ 8-9 tiếng mỗi ngày, và ban ngày nên cho trẻ ngủ trưa.
Vì trẻ hiếu động đòi hỏi thầy cô giáo phải biết kiên nhẫn và nhẹ nhàng. Không nên la mắng trẻ. Điều quan trọng là người giáo dục trẻ nên biết được những mặt hạn chế cũng như nhu cầu của trẻ để đưa ra biện pháp giáo dục trẻ một cách thích hợp.
Trẻ hiếu động thường không biết nguy hiểm là gì. Chính vì vậy mà người dạy trẻ cần phải theo dõi trẻ sát sao hơn bình thường. Khi bạn cần tìm một người giữ trẻ như thế, bạn nên chọn người có kinh nghiệm và có kỹ năng nhằm tránh những rủi ro có thể xảy ra cho trẻ.
Dùng bạo lực, la hét hay đánh đập trẻ thường không mang lại lợi ích gì mà lại làm cho trẻ bị "lờn mặt" đi. Lúc này tốt hơn là nên yêu cầu trẻ vào phòng đóng cửa lại là vừa. Cách giải quyết này cũng làm cho bạn và trẻ lấy lại bình tĩnh.
La mắng hay quở trách sẽ gây thêm rối loạn hành vi của trẻ. Trẻ hiếu động thường gặp phải vấn đề trầm trọng về khả năng tự tin của chúng. Điều quan trọng là làm thế nào để chỉ ra cho trẻ điều đó để chúng trở nên tốt hơn, chứ không nên nhắc đi nhắc lại về những sai lầm mà trẻ mắc phải. Hãy rộng lượng và khuyến khích trẻ!
Các biện pháp khác:
Xoa bóp(massage): Xoa bóp đặc biệt có lợi giúp thư giãn đối với những thanh thiếu niên bị chứng rối loạn không tập trung-hiếu động. Trẻ được điều trị bằng phương pháp mát-xa thư giản giúp trẻ trầm tĩnh hơn, ngủ ngon hơn, tránh được những cơn ác mộng khi ngủ, cải thiện được hành vi, biết lắng nghe, vâng lời cha mẹ hơn
Phương pháp Tomatis: Nguyên tắc của phương pháp này là dùng âm nhạc để điều trị cho trẻ mắc chứng rối loạn không tập trung và hiếu động, được khởi xướng bởi một bác sĩ người Pháp tên Alfred A. Tomatis. Theo ông, đây là một phướng pháp cho kết quả rất tốt. 
Chính âm nhạc làm cải thiện khả năng nghe của trẻ, bằng cách kích thích não bộ giúp trẻ tập trung vào âm thanh mà không bị phân tán. Vì vậy, người ta thường cho trẻ nghe nhạc Mozart, hòa tấu, thậm chí nghe giọng nói của người mẹ.
Phương pháp Tâm vận động: Phương pháp này đòi hỏi một số trang bị về phòng ốc, các dụng cụ giáo dục đặc biệt và những kiến thức chuyên môn. Ở Pháp, Tâm vận động (Psychomotricité) là một chuyên ngành của trị liệu tâm lý, các chuyên viên tâm vận động được đào tạo với kỹ năng và kiến thức chuyên môn để có thể trị liệu cho từng độ tuổi khác nhau.
Theo Chuyên viên tâm lý Phạm Văn Thượng
Trung tâm Hỗ trợ tâm lý cộng đồng SPC

5 cách đơn giản giúp bé không bị cảm lạnh

Dưới đây là 5 bí quyết đơn giản mà các mẹ nên làm để giữ cho con tránh khỏi các cơn cảm lạnh trong mùa đông.

1. Dạy trẻ em giữ vệ sinh

Mầm bệnh có ở khắp mọi nơi, đặc biệt là trong trường học (tay nắm cửa, vòi nước ở phòng vệ sinh, đồ chơi,…), con bạn và rất nhiều bé khác cùng nhau vui chơi, học tập, ăn ngủ ở trường từ 6 đến 7 tiếng mỗi ngày và chắc chắn vi trùng, virus gây bệnh có rất nhiều thời gian để lây lan. 

Hãy hướng dẫn và tạo thói quen giữ vệ sinh cá nhân cho con của bạn bằng cách thường xuyên rửa tay, rửa mặt và làm sạch răng miệng hàng ngày. 

2. Không ăn chung, uống chung, dùng chung đồ

Dạy trẻ về cách chia sẻ là một điều cần thiết nhưng quan trọng hơn là khái niệm về sự chia sẻ ấy nên như thế nào. Đó không phải là việc chia sẻ một cốc nước, ăn chung một bát cơm hoặc dùng chung đồ hay bất cứ điều gì tương tự, vì đó sẽ là “mảnh đất màu mỡ” cho virus cảm cúm và các bệnh truyền nhiễm khác.  

5 cách đơn giản giúp bé không bị cảm lạnh 1
Dặn bé thường xuyên rửa tay sạch sẽ là một trong những cách giúp bé tránh xa bệnh cảm lạnh. (Ảnh minh họa)

3. Mặc phù hợp thời tiết, ăn uống đủ chất và điều độ

Trẻ cần được mặc phù hợp với thời tiết từng mùa và từng ngày (vào những thời điểm giao mùa, bạn có thể mặc cho bé nhiều lớp và dạy bé cách điều chỉnh để phù hợp nhiệt độ trong ngày, tránh quá nóng hoặc quá lạnh). Chế độ dinh dưỡng đủ chất, ăn điều độ, kết hợp với các loại vitamin giúp tăng cường hệ miễn dịch của trẻ. 

4. Ngủ đúng giờ và đủ giấc 

Hầu hết lũ trẻ đều không thích đi ngủ, chúng có thể chống đối lại việc phải đi ngủ đúng giờ. Hãy kiên nhẫn và cố gắng xây dựng cho con bạn thói quen đi ngủ đúng giờ để đảm bảo cho bé không dậy muộn vào sáng hôm sau và có đủ sức khoẻ cho buổi học trên lớp. 

5. Nếu thấy con bạn có triệu chứng ốm, hãy cho bé ở nhà 

Nhiều phụ huynh sẽ phải nghỉ làm dù đang rất bận rộn với công việc ở cơ quan, nhưng lời khuyên cho bạn là không nên đưa trẻ đến trường khi con bạn có biểu hiện của cảm cúm. Mầm bệnh sẽ lây lan sang các trẻ khác, gây ra một phản ứng dây chuyền không tốt và có thể cuối cùng, chính con bạn lại bị nhiễm cúm lần nữa. 

Theo Bana Houz - Trí thức trẻ

Chụp CT não có thể chẩn đoán chứng tăng động giảm chú ý

Các bác sĩ có thể chẩn đoán chứng tăng động giảm chú ý (ADHD) ở trẻ em nhờ phương pháp chụp quét CT não.

Các nhà nghiên cứu so sánh kết quả scan não của những người mắc chứng ADHD và người bình thường. Ảnh: Health.
Đây là bước đột phá, đóng vai trò quan trọng trong tiến trình tìm ra biện pháp điều trị chứng bệnh này. Khi xem hình ảnh chụp quét CT, các nhà khoa học nhận thấy não của những đứa trẻ và thiếu niên bị tăng động phát triển chậm hơn bạn bè đồng trang lứa. Điều đó cũng có nghĩa là sự kết nối trong mạng lưới não của trẻ ADHD kém phát triển hơn.
Vì não của trẻ mắc chứng tăng động có ít kết nối giữa các mạng lưới não (những kết nối này giúp điều khiển suy nghĩ nội tâm) nên chúng thường mơ mộng và khó tập trung. Thay vào đó, chúng lại dễ bị thu hút sự chú ý vào những thứ ngoài lề.
Điều này lý giải tại sao những người mắc ADHD dễ bị phân tâm hoặc phải đấu tranh để có thể tập trung vào một vấn đề nào đó. Khoảng 3 đến 7% (tương đương 400.000) trẻ em ở Anh được chẩn đoán mắc chứng tăng động giảm chú ý. Chúng phải uống thuốc thường xuyên để cải thiện khả năng tập trung khi học hành.
Trong nghiên cứu lần này, nhóm nhà khoa học đã chụp CT não của 275 trẻ em và thanh thiếu niên mắc ADHD rồi so sánh với hình ảnh CT não của 48 người bình thường. Khi sử dụng phương pháp “Bản đồ hệ thần kinh" để sắp xếp kết nối giữa các mạng lưới trong não, họ cũng nhận thấy các kết nối liên quan đến khả năng tập trung của trẻ ADHD phát triển chậm hơn.
Trên thực tế một số đứa trẻ và thiếu niên có thể thoát khỏi chứng rối loạn tăng động giảm chú ý, trong khi số khác lại không. Phát hiện này tạo tiền đề cho những công trình nghiên cứu sâu hơn nhằm theo dõi quá trình chứng ADHD phát triển như thế nào từ thời thơ ấu đến tuổi trưởng thành của một con người.
Đánh giá về kết quả nghiên cứu trên Healthday, TS Chandra Sripada đến từ Khoa Tâm thần, ĐH Y Michigan (Mỹ) cho rằng những phát hiện lần này cung cấp thêm luận cứ chuẩn xác giúp các chuyên gia tìm ra lý do người ta bị tăng động và cơ chế thoát khỏi chứng bệnh này. Từ đó mở ra một triển vọng mới trong điều trị ADHD.
Kết quả nghiên cứu được công bố trên tạp chí của Viện Khoa học Hàn lâm Anh. Các nhà khoa học trong hội đồng phản biện cũng kỳ vọng phát hiện mới này tạo tiền đề cho những giai đoạn nghiên cứu tiếp theo với quy mô lớn hơn. Phương pháp “Bản đồ hệ thần kinh” có thể được sử dụng để kiểm tra các rối loạn liên kết não, bao gồm cả chứng tự kỷ và tâm thần phân liệt. 
Theo Ngọc Diễm - VnExpress

Thói quen xấu dễ khiến trẻ bị bệnh

Thói quen ăn vặt nhiều hơn, lười rửa tay vì sợ lạnh hay suốt ngày dán mắt vào tivi...dễ khiến trẻ bị bệnh vào mùa đông.

Theo Linh Chi - Kiến thức

Chăm sóc bệnh nhi sau mổ sứt môi, hở vòm

Không cho trẻ móc tay vào vết thương hoặc đưa vật cứng vào miệng. Tuần lễ đầu cho bé uống sữa bằng muỗng, không bú mẹ, bú bình, có thể uống thêm sinh tố, nước cháo hoặc súp loãng.

Khe hở môi - vòm là dị tật bẩm sinh vùng hàm mặt rất thường gặp ở trẻ em với tỷ lệ khá cao. Ước tính hàng năm tại Việt Nam có trên 3.000 trẻ em sinh ra với dị tật khe hở môi, khe hở vòm miệng. 
Phương pháp điều trị duy nhất là phẫu thuật tạo hình phục hồi chức năng giải phẫu và thẩm mỹ, đem lại cho bệnh nhân hình dáng bình thường để hòa nhập với cộng đồng.
Về nguyên tắc có thể phẫu thuật bất cứ lúc nào ngay cả sau khi mới sanh. Tuy nhiên thực tế việc chọn lựa thời điểm phẫu thuật thích hợp phụ thuộc vào sức khỏe bệnh nhân, khả năng và điều kiện gây mê, sự hợp tác của gia đình trẻ... 
Phẫu thuật môi thường được thực hiện ở trẻ từ 3 tháng tuổi, cân nặng từ 5 kg trở lên. Phẫu thuật vòm dành cho trẻ 12-18 tháng tuổi, cân nặng từ 10 kg trở lên.
BS CKI Nguyễn Minh Hằng, Phó Trưởng Khoa Răng Hàm Mặt, BV Nhi đồng 1 (TPHCM) đưa ra một số lưu ý khi chăm sóc bệnh nhân dị tật khe hở môi, vòm miệng.
- Thời kỳ mang thai, khi kết quả siêu âm phát hiện thai nhi có dị tật sứt môi, hở vòm, thai phụ cần được tư vấn kỹ. Trong phạm vi chuyên khoa hàm mặt, nên giữ thai vì đây là dị tật bẩm sinh nhẹ nhất trong số các dị tật bẩm sinh, chỉ cần phẫu thuật tạo hình, trẻ sẽ đạt chức năng và thẩm mỹ để hòa nhập tốt với cộng đồng.
- Sau khi sinh, cần được hướng dẫn kỹ cách chăm sóc. Không nên quá lo lắng vì một số bé vẫn có thể bú mẹ như bình thường. Trường hợp những bé bị khe hở quá rộng không thể bú mẹ được nên tìm mua bình sữa chuyên dùng cho trẻ sứt môi, hở vòm. Có thể vắt sữa mẹ cho vào bình để bé bú.
 
Trẻ dị tật sứt môi, hở vòm cần được phẫu thuật tạo hình để đạt chức năng và thẩm mỹ, hòa nhập tốt với cộng đồng. Ảnh: Lê Phương.
- Trước phẫu thuật một tuần nên tập cho trẻ ngưng bú mẹ và ngưng bú bình. Tập cho trẻ uống bằng muỗng, tạo cho trẻ thói quen để sau phẫu thuật trẻ sẽ dễ thích nghi hơn.
- Sau phẫu thuật:
Giữ không để trẻ ngã. Theo dõi bệnh nhân, nếu có chảy máu, sốt hay khó thở phải báo ngay cho bác sĩ hoặc điều dưỡng biết. Nhiều trẻ sau mổ chưa thích nghi được với đường thở mới, bé còn bị ảnh hưởng thuốc mê nên chưa tỉnh hẳn, do vậy bé sẽ giãy đạp la khóc. Lúc này thuốc tê cũng hết tác dụng nên trẻ dễ bị chảy máu và đau.
Cho trẻ uống thuốc theo chỉ định của bác sĩ để giảm đau nhức, từ đó sẽ ngủ yên, giúp giảm chảy máu vết mổ và trẻ mau hồi phục.
Sau mổ vết thương thường đau cộng thêm trong lúc lành thương vết thương sẽ ngứa, do vậy giữ trẻ thật kỹ không để té ngã, tránh va đập mạnh. Đặc biệt trẻ không cho tay móc vào vết thương hoặc đưa vật cứng, đồ chơi vào miệng.
Đối với vết thương môi: giữ cho vết thương càng khô càng tốt. Băng ép giúp vết thương bớt sưng, giảm chảy máu, bớt đau. Song nếu để băng ướt (do bệnh nhân sổ mũi, dính sữa, thức ăn hoặc nước) sẽ làm vết thương dễ nhiễm trùng. Do đó khi băng bị ướt phải báo ngay để rửa vết thương và thay băng mới.
Đối với vết thương vòm: tránh ăn thức ăn cứng, ngậm vật sắc nhọn hoặc đồ chơi để không làm tổn thương vết mổ.
Tuần lễ đầu sau phẫu thuật cho bé uống sữa bằng muỗng, không bú mẹ hay bú bình, có thể uống thêm sinh tố, nước cháo hoặc súp loãng xay nhuyễn. Đối với trẻ quá nhỏ nên vắt sữa mẹ ra ly và cho uống bằng muỗng.
Tuần thứ 2 sau phẫu thuật ngoài những thức ăn của tuần đầu có thể cho trẻ ăn thêm cháo đặc có đầy đủ dưỡng chất như thịt, cá, trứng, rau, củ, quả….
Tuần thứ 3, thứ 4 sau phẫu thuật cho trẻ ăn thêm cơm mềm hoặc cơm nghiền nát.
Sau phẫu thuật một tháng trẻ có thể ăn uống bình thường như những trẻ cùng lứa tuổi.
Chú ý sau phẫu thuật bé chưa quen với miệng môi đã được tạo hình nên việc ăn, bú, nói phải được tập luyện từ từ. Cùng với việc sau phẫu thuật vết thương sưng, đau nên cha mẹ cần yên tâm vì đó là dấu hiệu bình thường. Tất cả sẽ ổn sau khi bé ăn uống trở lại như bình thường sau một tháng.

Theo Lê Phương - VnExpress

Thứ Bảy, 27 tháng 12, 2014

4 bệnh nguy hiểm cho trẻ do phế cầu khuẩn

Viêm phổi, viêm màng não, viêm tai giữa và nhiễm trùng huyết khiến nhiều trẻ phải nhập viện, nguyên nhân gây bệnh chủ yếu do phế cầu khuẩn.

Trao đổi về cách bảo vệ trẻ em phòng bệnh do phế cầu tổ chức tại TPHCM, chiều 7/12, BS Trương Hữu Khanh, Trưởng khoa Nhiễm - Thần Kinh, BV Nhi Đồng 1 cho biết, phế cầu (Streptococcus pneumoniae) là loại vi khuẩn khiến trẻ em nhập viện nhiều nhất. Trong đó, viêm tai giữa có thể khiến các bé giảm thính lực, còn lại viêm phổi, viêm màng não và nhiễm trùng máu đều có thể khiến các bé tử vong.
Tại Việt Nam ước tính hằng năm có khoảng gần 3 triệu lượt trẻ em dưới 5 tuổi mắc bệnh viêm phổi. Chỉ riêng BV Nhi Đồng 1, trung bình mỗi ngày có khoảng 40 bé bị bệnh đường hô hấp điều trị nội trú, phần lớn các em bị viêm phổi.
Phế cầu khuẩn là nguyên nhân hàng đầu khiến trẻ nhập viện. Ảnh minh họa:Thiên Chương
Có nhiều nguyên nhân gây viêm phổi nhưng thường gặp nhất là vi khuẩn phế cầu. Loại vi khuẩn này vốn thường trú trong hầu họng và khi có điều kiện như thời tiết thay đổi khiến sức đề kháng yếu thì gây bệnh. "Viêm phổi do phế cầu có tỷ lệ tử vong 10-20%, trẻ dưới 2 tuổi dễ có nguy cơ diễn tiến nặng”, ông Khanh cho biết.
Ngoài việc gây bệnh hô hấp khiến viêm phổi, vi khuẩn phế cầu còn có thể lên não để gây viêm màng não, tỷ lệ tử vong cao. Tại BV Nhi Đồng 1, không ít trường hợp viêm màng não do phế cầu đã để lại di chứng sau điều trị như giảm thị lực, rối loạn vận động, tổn thương não vĩnh viễn dẫn đến trẻ kém phát triển hoặc yếu liệt chi.
Loại bệnh thứ 3 không kém phần nguy hiểm là nhiễm trùng máu do phế cầu xâm nhập vào máu gây sốc nhiễm trùng. Bệnh nguy hiểm hơn với những trường hợp đã có sẵn những bệnh lý khác, với khoảng 20% bệnh nhi tử vong.
Cuối cùng, vi khuẩn phế cầu còn gây viêm tai giữa cấp với tần suất mắc rất cao ở trẻ nhỏ, khoảng 80% trẻ em dưới 3 tuổi mắc bệnh này. Theo BS Khanh, nhiều phụ huynh không phát hiện, để đến khi thấy con bị chảy mủ tai mới đưa đến bệnh viện. 
Khi ấy màng nhĩ đã bị tổn thương. Một số khác phát hiện bệnh, nhưng qua một thời gian thấy không sao, hóa ra bệnh tái phát sau nhiều năm. Lúc này dù điều trị thì thính lực của các em cũng đã bị ảnh hưởng.
Trong 4 bệnh do phế cầu khuẩn gây nên, viêm màng não là bệnh khó phát hiện. Biểu hiện thường thấy là trẻ khóc đêm thường xuyên và bỏ bú kéo dài. Với bé lớn, biểu hiện của viêm màng não có thể là đau đầu và nôn ói.
Với bệnh viêm phổi, triệu chứng ban đầu thường là ho nhiều, sốt cao, khóc quấy, bỏ bú, trẻ có biểu hiện thở nhanh (40-50 lần trong một phút). Với nhiễm trùng máu, các bé sốt, đau đầu, đau nhức cơ kèm ho. Còn với viêm tai giữa, trẻ hay khóc bất thường, khó ngủ, dùng tay kéo hay gãi tai, ở bệnh này chỉ cần người lớn kiểm tra tai của bé sẽ phát hiện bệnh.
Cùng với việc tiêm văcxin phòng bệnh, theo các chuyên gia bệnh truyền nhiễm, giữ ấm cơ thể bé trong mùa mưa và mùa lạnh, cho bé bú mẹ trong 6 tháng đầu đời, giữ vệ sinh môi trường sinh hoạt và giữ vệ sinh cơ thể trẻ là một những cách có thể làm giảm được nguy cơ mắc các bệnh do phế cầu khuẩn gây nên.
Theo Thiên Chương - VnExpress

6 dấu hiệu kiểm tra trẻ sơ sinh khỏe mạnh


Từ giây phút đầu tiên được ôm bé trong vòng tay, cuộc đời bạn đã bước sang một chương hoàn toàn mới, khác xa với những gì bạn tưởng tượng trước đây. Bé của bạn đang thay đổi từng tuần, thậm chí từng ngày. Đồng hành cùng con trong những tháng năm đầu đời, nắm bắt được sự phát triển của bé sẽ giúp bạn hiểu rõ con mình và chăm sóc bé tốt hơn.
Đối với những người mới làm mẹ lần đầu, họ có luôn có nhiều băn khoăn, trăn trở trong đầu, "liệu bé đã ăn no chưa?", "bé khóc thế này là bị làm sao?", "con có đang khỏe mạnh hay không?". 
Có mẹ phải lên mạng tìm kiếm thông tin về các dấu hiệu trẻ sơ sinh khỏe mạnh và nhận được vô vàn các câu trả lời. Để giúp các mẹ yên tâm, dưới đây xin liệt kê một số dấu hiệu chứng tỏ trẻ đang khỏe mạnh
1. Thay 8 - 10 tã một ngày
Điều đó chứng tỏ: Số lần thay tã cho bé trong ngày là một chỉ số rất tốt để theo dõi tình trạng sức khỏe của bé cưng. Nếu trẻ không cần thay tã thường xuyên, điều đó có thể báo hiệu một vấn đề bất ổn nào đó.
Khi bé yêu chưa đầy một tháng tuổi, mỗi ngày bé sẽ làm ướt từ 6 miếng tã trở lên và đi tiểu 3 - 4 lần. Không có gì là bất thường khi cha mẹ của trẻ sơ sinh phải thay tã cho bé ít nhất 10 lần trong ngày ở giai đoạn đầu đời.
Khi được hơn 1 tháng tuổi, bé vẫn sẽ làm ướt từ khoảng 4 - 6 miếng tã mỗi ngày. Việc đi tiểu phụ thuộc vào độ tuổi cụ thể và loại thực phẩm bé đang ăn nhưng số lần thay tã có xu hướng giảm đi so với tháng đầu tiên. Phân của trẻ sơ sinh thường mềm ít nhất ba tháng đầu vì cục cưng thu nạp hầu hết chất dinh dưỡng từ các chất lỏng.
Từ giây phút đầu tiên được ôm bé trong vòng tay, cuộc đời bạn đã bước sang một chương hoàn toàn mới, khác xa với những gì bạn tưởng tượng trước đây. Bé của bạn đang thay đổi từng tuần, thậm chí từng ngày. Đồng hành cùng con trong những tháng năm đầu đời, nắm bắt được sự phát triển của bé sẽ giúp bạn hiểu rõ con mình và chăm sóc bé tốt hơn. Đối với những người mới làm mẹ lần đầu, họ có luôn có nhiều băn khoăn, trăn trở trong đầu,
Số lần thay tã cho bé trong ngày là một chỉ số rất tốt để theo dõi tình trạng sức khỏe của bé cưng (Ảnh minh họa)
Mẹ để ý lịch thay tã cho bé là điều rất quan trọng, vì tã ướt và bẩn là dấu hiệu cho thấy trẻ đang được ăn uống đầy đủ. Mặc dù trẻ em có xu hướng tiêu tiểu theo các lịch trình khác nhau, bé yêu của bạn cần thay tã ít nhất 6 lần mỗi ngày. 
Nếu con không thải ra đủ lượng nước tiểu hoặc phân, đó là một dấu hiệu cho thấy bé không nhận đủ chất dinh dưỡng, và bạn nên nói chuyện với bác sĩ. Luôn nhớ rằng số lần đi tiêu giảm sút sau tháng đầu tiên vì đây là lúc ruột của trẻ đang dần hoàn thiện.
2. Bé phản ứng nhanh với các âm thanh
Điều đó chứng tỏ: Thính giác của trẻ đang phát triển, và con đang sử dụng bộ não của mình để phân biệt các âm thanh.
Trẻ hoàn toàn có khả năng nghe từ khi sinh ra, nhưng phải mất một vài tuần để có có thể lọc được ra các tiếng ồn trắng (âm thanh giúp con người tập trung hơn, làm cho não thư giãn, cũng như là dễ ngủ hơn, ngủ ngon và thấy thoải mái hơn) từ cuộc sống hằng ngày bên ngoài tử cung. 
Một khi mẹ thấy bé phản ứng với âm thanh bằng cách đảo mắt tìm kiếm các chỗ phát ra âm thanh, mẹ sẽ biết tai con có được khỏe mạnh và trẻ đang phát triển sự tò mò về những gì nghe thấy.
Tầm từ 2 - 3 tháng tuổi, cơ quan thính giác của bé đang trong quá trình hoàn thiện, vì vậy bé chỉ nghe được những âm thanh ở gần. Bé có thể hướng đầu, quay mặt về phía người hỏi chuyện bé. 
Bé đặc biệt thích thú khi được nghe giọng nói của mẹ hay của những người xung quanh. Lúc này, bé đã biết phản xạ với tiếng nói hoặc âm thanh. Bé sẽ lắng nghe chăm chú và có thể có phản ứng đáp lại.
Để kích thích và phát triển khả năng nghe của trẻ, mẹ có thể mua cho bé đồ chơi phát ra tiếng nhạc như hộp âm nhạc vừa có thể luyện tập thính lực cho bé vừa có thể làm cho bé vui. Nếu khi bé của bạn đã được 2 tháng tuổi mà vẫn chưa biết cười, ánh mắt có thể ngây ngô hoặc không có phản ứng gì với âm thanh nghe được, bạn nên đưa bé tới bệnh viện để kiểm tra năng lực, trí tuệ và khả năng nghe của bé.
3. Tập trung tầm nhìn vào các đồ vật, màu sắc
Điều đó chứng tỏ: thị giác và trí não của bé đang phát triển
Đây cũng được xem là một trong những dấu hiệu trẻ sơ sinh khỏe mạnh. Ngay giây đầu tiên lọt lòng mẹ, thị giác của bé đã được kích hoạt và bắt đầu phát triển. 
Tại thời điểm chào đời, thị lực của bé là 1/20, nhưng sẽ phát triển nhanh chóng để đạt đến mức trưởng thành là 20/20 khi bé ở vào khoảng 3-5 tuổi. Sự tăng trưởng cực nhanh là lý do vì sao tháng đầu đời rất quan trọng trong sự phát triển thị giác của trẻ.
1 tháng tuổi: Bé bắt đầu di chuyển mắt và đầu theo hướng có nguồn sáng, ghi nhận vật thể nằm trong trục ngang trước mặt, tiếp xúc bằng mắt và nhìn chăm chú vào những người chăm sóc bé.
2-3 tháng tuổi: Ghi nhận vật thể theo cả trục dọc và trục xoay (quanh bé); bắt đầu có thể di chuyển mắt độc lập với đầu; tăng nhạy với ánh sáng; dùng mắt nghiên cứu bàn tay và bàn chân mình; dễ bị mất tập trung bởi những hình ảnh thú vị khác; giữ tiếp xúc bằng mắt cường độ cao trong thời gian dài hơn.
Trong tầm tuổi này, nếu mẹ nhận thấy mắt bé không phát triển bình thường, chưa có khả năng tập trung nhìn ngắm một đồ vật nào đó thì nên cho bé đi khám để biết rõ tình trạng thị lực của con.
4. Giao tiếp bằng mắt, cười khúc khích và biết tán chuyện với mọi người
Điều đó chứng tỏ: Trẻ đang có nhu cầu được giao tiếp.
Giây phút đầu tiên mẹ có thể giao tiếp bằng mắt với trẻ sơ sinh là khi con được 1 tháng tuổi. 2 tháng tuổi con bắt đầu biết cười, 3 tháng tuổi biết thủ thỉ tán chuyện, 4 tháng tuổi có thể bật cười khúc khích.
Tất cả những tương tác này cho thấy bé đang kết nối với mẹ và trở nên ý thức hơn về môi trường xung quanh mình. Trên một mức độ nào đó, con hiểu rằng mọi người đang cố gắng tương tác với mình. Khoảng 5 tháng tuổi, bé đã nhận thức được sự giao tiếp của mọi người với mình, như thể một phản xạ tự nhiên bé đã mỉm cười khi ai đó mỉm cười với bé.
Từ giây phút đầu tiên được ôm bé trong vòng tay, cuộc đời bạn đã bước sang một chương hoàn toàn mới, khác xa với những gì bạn tưởng tượng trước đây. Bé của bạn đang thay đổi từng tuần, thậm chí từng ngày. Đồng hành cùng con trong những tháng năm đầu đời, nắm bắt được sự phát triển của bé sẽ giúp bạn hiểu rõ con mình và chăm sóc bé tốt hơn. Đối với những người mới làm mẹ lần đầu, họ có luôn có nhiều băn khoăn, trăn trở trong đầu,
Biết giao tiếp bằng mắt, cười khúc khích, tán chuyện với mọi người chứng tỏ trẻ đang hình thành nhu cầu xã hội (Ảnh Tiny Kapok)
Tất cả những hành vi này là chỉ số quan trọng của sự phát triển ngôn ngữ sớm. Bởi trước khi có thể hình thành ngôn ngữ hoàn thiện, trẻ em sử dụng ngôn ngữ cơ thể, bao gồm cả ánh mắt và nét mặt để biểu lộ thái độ cũng như mong muốn của mình.
5. Khóc ít và ngủ đều đặn hơn
Điều đó chứng tỏ: Hệ thần kinh của bé đang phát triển
Trẻ sơ sinh khóc và quấy nhiều là một điều bình thường. Tuy nhiên hiện tượng này sẽ được cải thiện theo thời gian. Trong suốt những tháng đầu, bé thường khóc nhiều. Bé sẽ khóc ít hơn sau 6-8 tuần, sau đó giảm dần đến khoảng 4 tháng tuổi thì rất ít quấy khóc. Bé thường khóc nhiều hơn sau giấc trưa và buổi chiều. Khi đó, bé cần được giải tỏa bớt áp lực sau một ngày dài.
Có một vài trường hợp bé bị đau bụng hoặc khóc không rõ nguyên nhân mặc dù trông bé vẫn khỏe mạnh. Nếu bé dưới 5 tháng tuổi khóc liên tục ba tiếng đồng hồ hoặc nhiều ngày trong tuần, rất có thể bé bị đau bụng. Đau bụng không phải là bệnh và cũng không gây hại về lâu dài cho bé, nhưng nó gây khó khăn cho cả bé và ba mẹ.
Về giấc ngủ, trẻ 4 tháng tuổi đã dần bắt đầu có những giấc ngủ ổn định và mẹ cũng có nhiều thời gian nghỉ ngơi hơn. Với nhiều trẻ 4 tháng tuổi, bé có thể ngủ liền một mạch 6 tiếng về đêm, vì thế mẹ cũng không nên lo trẻ đói mà đánh thức trẻ dậy để cho trẻ bú. Trường hợp trẻ từ 4 tháng tuổi trở lên vẫn có thói quen ăn ngủ không đều đặn, mẹ cần thiết lập một chế độ chặt chẽ hơn cho con.
6. Khi bé có khả năng chống đỡ được cơ thể
Điều đó chứng tỏ: Đây là dấu hiệu trẻ sơ sinh khỏe mạnh, chứng tỏ những cơ bắp nhỏ của bé đang mạnh lên.
Rất nhiều em bé 1 tháng tuổi đã có thể giữ đầu của mình lên một thời gian ngắn. Vào thời điểm bé 3 tháng tuổi, con sẽ làm như vậy thường xuyên và với kỹ năng cao hơn. Nếu bé có thể ngẩng đầu lên hoặc quay ngang nhìn ngó xung quanh trong vòng tay của mẹ, điều đó chứng tỏ con đang phô diễn sức mạnh ngày càng tăng của mình.
Khi bé có thể giữ thăng bằng, tay cứng cáp hơn và có thể kiểm soát được đầu, cổ, và thân dưới, bé sẽ cố gắng ngồi dậy. Lúc này, tầm nhìn của bé thay đổi, cho phép bé quan sát được ở phạm vi rộng hơn. Khi nhận thấy những điều mới mẻ này, bé sẽ cố gắng rướn người cao hơn để nhìn được nhiều hơn.
Trong những lần đầu tiên, bé sẽ không tự ngồi lâu được nên bạn có thể giúp dang hai tay bé ra cho bé giữ thăng bằng. Để khuyến khích bé ngồi, bạn hãy đu đưa nhẹ người bé và đặt những món đồ lạ mắt, yêu thích của bé ở trước mặt. Sau đó, bạn di chuyển các món đồ chơi đó chậm chậm từ bên này qua bên kia để tập cho bé giữ thăng bằng và quen với việc ngồi hơn.
Theo Thanh Loan - Khám phá

Kiêng kỵ khi trẻ ho đàm

Trẻ nhỏ rất dễ ho có đàm vào những ngày thời tiết thay đổi hay khi nhiệt độ xuống thấp. Lúc này bạn cần hạn chế tối đa các yếu tố nguy cơ khiến cho tình trạng bệnh nặng hơn.

kieng-ky-khi-tre-ho-dam
Không ra ngoài khi sáng sớm
Sáng sớm, nhiệt độ ngoài trời thấp hơn nhiều so với nhiệt độ bên trong nhà (ít nhất cũng khoảng 2-30C) và có nhiều gió hơn. Để trẻ ra ngoài vào sáng sớm có thể gây nhiễm lạnh, gặp gió, gây ho. Nếu bé đang bị ho thì sẽ càng bị ho nhiều hơn. Chưa kể, sương sáng sớm rất lạnh, nếu trẻ đứng ngoài sân hoặc gần cửa sổ để mở, bé dễ hít phải sương, gây ho dị ứng và tiết nhiều đàm.
Để bảo vệ bé, mỗi buổi sáng khi thức dậy bạn không nên để trẻ chạy ra ngoài ngay mà nên để bé dậy chừng 5-10 phút để cơ thể tái kích hoạt chuyển sang trạng thái thức. Khi đó cơ chế phòng lạnh của cơ thể sẽ tốt hơn. Vào những ngày thời tiết bình thường, bạn cũng không nên cho trẻ ra ngoài trước 7h sáng; còn những ngày trời lạnh, chỉ cho trẻ ra ngoài sau 8h.
Tránh đi chơi về muộn
Buổi chiều muộn, nhiệt độ giảm xuống nhanh, nhất là từ 5h chiều. Tốc độ hạ nhiệt quá nhanh sẽ khiến cơ thể bé không kịp thích nghi, dễ gây ho đàm ở trẻ. Những trẻ đang bị ho đàm thì khi ở ngoài trời vào chiều muộn sẽ khiến đàm tiết ra nhiều hơn. 
Lý do là vì trong điều kiện nhiệt độ giảm hệ hô hấp cần tiết ra nhiều dịch để làm ẩm không khí. Khi hệ hô hấp không không kịp điều tiết sẽ gây ho nhiều hơn.
Tốt nhất, bạn nên cho trẻ về nhà trước 5h30 chiều vào những ngày mùa hè và trước 5h chiều vào những ngày thu đông; tuyệt đối không để trẻ ở ngoài trời sau 6h chiều. Khi ở ngoài trời vào lúc chiều muộn, bạn nên bế bé vào lòng, quay mặt ngược lại với chiều gió, ngực và bụng của bé áp vào người bạn (không nên đặt bé ở trong xe đẩy) để cản gió và sưởi ấm cho bé, tránh tối đa nguy cơ nhiễm lạnh.
Cẩn thận với điều hòa
Những ngày nắng, bố mẹ thường lo trẻ bị nóng nên tích cực bật điều hòa mà không biết điều này càng khiến cho tình trạng ho đàm của bé nặng hơn. Vì chế độ điều hòa lạnh thường khiến cho không khí bị khô, độ ẩm có khi chỉ còn 50%. 
Không khí lạnh và khô sẽ làm cho đường thở của bé bị khô và làm tăng thêm tình trang viêm niêm mạc ở cổ họng. Điều này khiến đàm sinh ra nhiều hơn, trong khi những mảng đàm cũ trở nên khó tiêu và khó khạc ra, bệnh sẽ càng khó dứt.
Nếu muốn dùng điều hòa cho bé, bạn hãy duy trì nhiệt độ 270C. Không nên để giường ngay đối diện với hướng của điều hoà mà chỉ nên đặt song song với hướng của luồng hơi đi ra. Nếu bé đang bị ho, bạn nhớ phủ một chiếc khăn mặt bông mỏng lên vùng ngực, bụng khi cho trẻ nằm điều hoà.
Đừng để quạt trực diện
Đặc điểm của quạt điện là làm không khí liên tục lưu thông với cường độ lớn, dẫn đến tăng tốc độ bay hơi nước. Khi cho trẻ nằm trước quạt, sự bay hơi nước trong đường thở càng nhanh, nhất là khi để chế độ quạt mạnh và đứng im một chỗ. Trẻ em ngủ lại hay há miệng cho nên rất dễ bị khô miệng họng và phế quản, gây viêm sưng niêm mạc họng.
Khi bé bị ho đàm, bạn không nên để quạt trực diện, cũng không nên để theo hướng thổi từ chân lên đầu (hướng gió sẽ đi vào mũi miệng), tốt nhất nên để quạt chếch người, hướng từ thân người xuống dưới chân, cách chỗ nằm của bé khoảng hơn 1m.
Theo BS Lâm Yên Phúc - Sức khỏe gia đình

4 cách đơn giản phòng và điều trị các bệnh ở miệng của trẻ

Sưng nướu hay những vết lở loét trong miệng, nấm miệng… là những bệnh ở miệng mà nhiều trẻ gặp phải

Nguyên nhân của một số bệnh trẻ thường gặp ở miệng

Viêm loét miệng

Là những tổn thương phát sinh ở vùng niêm mạc miệng và cổ họng gây đau đớn, rất khó chịu khi trẻ ăn, nói hoặc cử động. Đặc biệt khi ăn uống những thực phẩm nóng, lạnh có chất kích thích thì bé càng bị đau hơn tại những vết loét và phần xung huyết xung quanh.

Thông thường, triệu chứng viêm loét miệng sẽ biến mất sau 1 - 2 tuần, nhưng có thể tái phát.

Nguyên nhân: Những yếu tố có thể làm tăng nguy cơ bệnh bao gồm: chấn thương nhỏ từ miệng (do trẻ đánh răng quá nhiều, ăn nhiều thực phẩm nhiều gia vị, có tính axit, tai nạn do cắn; các rối loạn đường ruột nghiêm trọng; suy giảm hệ thống miễn dịch…

4 cách đơn giản phòng và điều trị các bệnh ở miệng của trẻ 1Ảnh minh họa

Viêm nướu

Viêm nướu như là tình trạng sưng tấy, đau hoặc viêm nhiễm nướu răng. Có 2 hình thức chính của bệnh viêm nướu là viêm nướu và bệnh nha chu.

Nguyên nhân: Nguyên nhân chính gây viêm nướu là do nhiều vi khuẩn sinh sôi trong miệng gây kích thích mô nướu, gây viêm nướu. Nếu không được điều trị, viêm nướu sẽ dẫn đến viêm nha chu, phá hủy vĩnh viễn lên răng và hàm của trẻ.

Nấm miệng

Biểu hiện của trẻ bị nấm miệng là có những mảng màu trắng xuất hiện trên lưỡi và những vết loét đỏ trên môi, trên vòm miệng, niêm mạc miệng. Khi bị nấm miệng, trẻ có thể cảm thấy rát trong miệng hoặc cổ họng.

Nguyên nhân: Nấm miệng là do tác động của những yếu tố bên ngoài hoặc hệ thống miễn dịch suy yếu, ví dụ như uống thuốc kháng sinh trong một thời gian dài; dùng corticosteroid; viêm đường tiết niệu…

Những bệnh này làm tăng lượng vi khuẩn trú ngụ trong miệng nên hoàn toàn có thể gây ra triệu chứng kèm theo là hôi miệng. Điều này không những khiến trẻ khó chịu vì bệnh mà còn mặc cảm và ngại ngùng trong giao tiếp.

4 cách đơn giản phòng và điều trị các bệnh ở miệng của trẻ 2
Ảnh minh họa

4 cách đơn giản phòng và điều trị bệnh ở miệng của trẻ

Chú ý vệ sinh răng miệng đúng cách: Đây là điều quan trọng trong quá trình điều trị và phòng ngừa các bệnh về miệng. Trẻ nên chải răng thường xuyên ngày 2-3 lần. Không nên cho trẻ dùng tăm xỉa răng vì dễ gây tổn thương nướu, sưng nướu, đau miệng. Hướng dẫn trẻ dùng chỉ tơ nha khoa chăm sóc răng miệng hàng ngày.

Bổ sung chế độ dinh dưỡng hợp lý: Hàng ngày để điều trị và phòng ngừa bệnh về miệng, phụ huynh nên bổ sung vitamin C và B12 vào bữa ăn của trẻ. Hạn chế cho trẻ ăn thức ăn quá ngọt, nước giải khát có ga. Cho trẻ ăn nhiều rau xanh và hoa quả, những thực phẩm, món ăn dễ tiêu hóa để không gây nhiệt miệng, viêm loét và tổn thương răng miệng.

Khám răng miệng định kỳ: Phụ huynh nên đưa trẻ đi khám răng miệng định kỳ 6 tháng/lần. Các bác sĩ nha khoa sẽ giúp phát hiện và điều trị dứt điểm sớm những bất ổn các bệnh về miệng ở trẻ để cơ thể luôn khỏe mạnh.

4 cách đơn giản phòng và điều trị các bệnh ở miệng của trẻ 3Ảnh minh họa

Giữ sạch đôi tay: Nhiều trẻ có thói quen đưa tay vào miệng mà không ý thức được khi đưa tay không sạch vào miệng, vô tình vi khuẩn cũng vào theo. Điều này khiến những chỗ bị đau trong miệng bị tổn thương và trở thành yếu tố thuận lợi cho vi khuẩn xâm nhập, gây viêm sưng lợi cũng như viêm ở các vị trí khác trong khoang miệng. Việc điều trị bệnh cũng trở nên khó khan hơn.


Do đó, ngoài việc giữ cho trẻ hạn chế đưa tay vào miệng, cha mẹ nên tạo cho con thói quen giữ vệ sinh tay bằng cách thường xuyên rửa tay với xà phòng diệt khuẩn, đặc biệt là rửa tay trước và sau khi ăn, khi đi vệ sinh, đi ra ngoài để hạn chế lượng vi khuẩn trên tay trẻ. Những người tham gia chơi, chăm sóc trẻ cũng cần rửa tay thường xuyên bằng xà phòng diệt khuẩn để tránh tác nhân lây truyền bệnh cho trẻ.

Theo Saga - Trí thức trẻ

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons