Hội chứng suy hô hấp ở trẻ sơ sinh (hay còn gọi là
bệnh màng trong) thường gặp ở trẻ sơ sinh non tháng, do phổi chưa trưởng
thành, thiếu hoạt chất tạo tính bề mặt (surfactant) đưa đến giảm diện
tích bề mặt phế nang dành cho việc trao đổi khí gây suy hô hấp, có thể
dẫn đến tử vong ở trẻ sinh non.
Nguyên nhân gây suy hô hấp ở trẻ sơ sinh
Ở phổi người bình thường, bên trong phế nang có chứa
một chất surfactant - là chất giảm hoạt bề mặt có tác dụng duy trì tính
ổn định của phế nang, giúp cho các phế nang không bị xẹp. Chất giảm hoạt
bề mặt ở phổi của bào thai xuất hiện tương đối vào tuần thứ 20. Nó phủ
vách trong của phế nang và có trong nước ối vào tuần thứ 28-36.
Ở trẻ sinh non khi phổi chưa thực sự trưởng thành
chất giảm hoạt bề mặt sẽ chưa hoàn thiện. Khi thiếu chất này, phế nang
sẽ bị xẹp, dẫn đến hiện tượng huyết tương tràn vào phế nang, chất fibrin
của huyết tương lắng đọng phía trong của các phế nang và các tiểu phế
quản, tạo thành một lớp màng. Màng này cản trở sự lưu thông khí và sự
trao đổi ôxy, lúc này CO2 từ phế nang qua các mao mạch dẫn đến suy hô hấp và tử vong nếu không được điều trị kịp thời.
|
Nhận biết
Thông thường, sau khi sinh khoảng vài phút hoặc vài
giờ sau khi sinh trẻ xuất hiện hội chứng suy hô hấp nặng mà không tìm
thấy các nguyên nhân như: Nhiễm khuẩn, ngạt nước ối, hít phải phân su...
với biểu hiện là khó thở nhanh nông, nhịp thở trên 60 lần/phút. Các
khoang liên sườn, hõm trên ức, co kéo, cánh mũi phập phồng, toàn thân
tím tái. Cho thở ôxy không đỡ...
Nếu nhẹ và điều trị đúng thì sau khoảng 72 giờ các
triệu chứng giảm dần và trẻ có thể được cứu sống. Nếu nặng, các dấu hiệu
tím tái, khó thở tăng lên, huyết áp hạ, thân nhiệt hạ, trẻ có thể tử
vong sau vài giờ. Tuy nhiên đối với trẻ được cứu sống, sau khi khỏi bệnh
có thể để lại một số di chứng như thiếu ôxy não, xuất huyết não, hạ
đường huyết…
Phòng tránh suy hô hấp ở trẻ sơ sinh
Để phòng tránh suy hô hấp ở trẻ sơ sinh, thai phụ
phải đảm bảo sức khỏe, có chế độ dinh dưỡng, sinh hoạt, lao động phù
hợp, khám theo dõi thai đều đặn để hạn chế tối đa tình trạng đẻ non, đẻ
con nhẹ cân. Ngoài ra ở các thai phụ có nguy cơ như: Phải mổ lấy thai,
thời gian chuyển dạ quá lâu, bị băng huyết, sinh đôi, bị bệnh đái tháo
đường, sử dụng chất corticoid kéo dài trong thời gian mang thai, tiền sử
gia đình có trẻ bị bệnh màng trong,... cần được các bác sĩ chuyên khoa
khám quản lý theo dõi chặt chẽ để phòng bệnh.
BS. Thu Lan
0 nhận xét:
Đăng nhận xét